ZingTruyen.Com

Su Im Lang Cua Bay Cuu Thomas Harris

   EVERETT YOW lái chiếc Buick đen dán logo của Đại học De Paul trên kính sau. Cân nặng của ông ta làm chiếc xe hơi nghiêng sang trái khi Clarice Starling bám theo ông ta ra khỏi Baltimore dưới mưa. Trời đã sẫm tối, những chuỗi ngày làm điều tra viên của Starling sắp hết và cô không còn ngày nào khác để bù vào. Cô gõ ngón tay lên vô lăng theo nhịp cần gạt nước cho đỡ sốt ruột trong khi xe cộ nhích từng chút một trên Lộ 301.

   Yow là người thông minh, béo và có vấn đề về hô hấp. Starling đoán ông ta khoảng 60 tuổi. Cho tới lúc này thì ông ta khá dễ gần. Không phải lỗi của ông ta mà cô mất một ngày, ngay khi trở về lúc tối muộn sau chuyến công tác một tuần tới Chicago, người luật sư Baltimore đã đi thẳng từ sân bay đến văn phòng để gặp Starling.

   Chiếc Packard cổ điển của Raspail được lưu kho từ lâu trước khi ông ta chết, Yow giải thích. Nó không có giấy phép và chưa bao giờ được lái. Yow có nhìn thấy nó một lần, được phủ kín trong kho để khẳng định sự tồn tại của nó khi kiểm kê di sản ngay sau khi thân chủ của ông bị sát hại. Ông ta nói nếu điều tra viên Starling đồng ý "thẳng thắn tiết lộ ngay" bất cứ thứ gì cô tìm thấy mà có thể làm tổn hại đến lợi ích thân chủ của ông ta thì ông ta sẽ cho cô xem chiếc xe. Không cần lệnh và không cần phiền người tới làm nhân chứng.

   Starling hưởng một ngày sử dụng chiếc Plymouth có điện thoại di động trong đội xe của FBI, và cô có thẻ nhận dạng mới Crawford cấp cho. Nó chỉ ghi ĐIỀU TRA VIÊN LIÊN BANG – và cô thấy hạn chỉ có một tuần.

   Đích đến của họ là Tiểu kho Split City, quá thành phố khoảng bảy cây số. Nhích từng tí theo dòng xe, Starling dung điện thoại của mình cố gắng tìm hiểu càng nhiều càng tốt về khu nhà kho này. Khi họ nhìn thấy tấm biển màu da cam treo cao đề hàng chữ TIỂU KHO SPLIT CITY – CHÌA KHOÁ TRONG TAY BẠN thì cô đã biết được vài điều.

   Split City có giấy phép kinh doanh vận chuyển của Uỷ ban Thương mại Liên bang, cấp cho Bernard Gary. Đại bồi thẩm đoàn liên bang đã suýt bỏ sót tội vận chuyển hàng trộm cắp của ông ta ba năm trước và giấy phép kinh doanh của ông ta phải xem xét lại.

   Yow rẽ vào ngay dưới biển hiệu và đưa cho một anh chàng mặt tàn nhang mặc đồng phục trực ở cổng xem chìa khoá của ông ta. Người giữ cổng ghi lại số xe của họ, mở cổng và sốt ruột vẫy tay như thể anh ta đang có việc quan trọng hơn cần làm.

   Split City là một nơi trống trải, gió thổi bốn bề. Giông như chuyến bay ly dị ngày Chủ nhật từ La Guardia tới Juárez, đó là một ngành công nghiệp phục vụ cho những chuyến đi ngẫu hứng, bất cần của người dân; hầu hết công việc kinh doanh của nó là lưu giữ tài sản được phân chia sau ly dị. Các gian của nó chất đầy đồ dùng phòng khách, bôk đồ ăn sáng, những tấm đệm hoen ố, đồ chơi và ảnh chụp những đồ đã hỏng. Nhiều sĩ quan cảnh sát hạt Baltimore tin rằng Split City còn cất giấu hàng hoá và đồ quý từ những phiên toà xử phá sản.

   Nó giống như một doanh trại: ba mươi mẫu đất với các toà nhà dài được phân cách bởi các bức tường chống lửa thành các gian rộng khoảng một ga ra đơn loại lớn, mỗi gian đều có một cánh cửa cuốn. Lãi suất tương đối hợp lý nên một số tài sản đã được cất ở đây nhiều năm. Bảo an tốt, nơi này được hai lớp hàng rào cao chống bão bao quanh và có chó đi tuần giữa hai lớp hàng rào 24/24.

   Một lớp lá sũng nước lẫn cốc giấy và rác rưởi linh tinh dày cả 15 phân nằm chắn dưới chân cửa gian của Raspail, gian số 31. Mỗi bên của được khoá bằng một cái khoá chắc nịch. Yếm khoá bên trái có dán niêm phong. Starling cầm ô và đèn pin rọi vào bóng tối nhàn nhạt.

     "Có vẻ nó chưa được mở từ lần trước tôi đến cách đây năm năm," ông ta nói. "Cô thấy dấu niêm phong của tôi trên lớp nhựa ở đây không? Khi đó tôi không hề biết đám người thân lại sinh sự như thế, làm việc chia gia tài mấy năm không xong."

   Yow cầm đèn pin và cái ô cho Starling chụp hình khoá và niêm phong.

     "Ông Raspail có một căn hộ - văn phòng trong thành phố mà tôi đã đóng cửa để nó đỡ nộp thuế," ông ta nói. "Tôi đã chuyển đồ nội thất tới đây cất cùng xe và những thứ khác của ông ấy được để đây từ trước. Chúng tôi đem tới một cây đàn piano, sách vở và nhạc phổ, cả một cái giường nữa, tôi nghĩ thế."

   Yow thử một chìa khoá. "Ổ khoá có thể bị hóc. Ít nhất là cái này không xoay được." Rất khó cho ông ta khi phải gập người vừa thở. Trong khi cố ngồi xổm đầu gối ông ta kêu răng rắc.

   Starling lấy làm mừng khi nhìn thấy khoá là loại American Standards cỡ lớn bằng cờ rôm. Trông chúng rất chắc chắn, nhưng cô biết mình có thể dễ dàng cạy bật còng chữ U bằng đồng nếu có vít bắt tôn tấm và búa nhổ đinh - cha cô đã chỉ cho cô biết bọn đạo chích làm chuyện đó thế nào từ khi cô còn bé. Vấn đề là phải tìm được búa và vít; nhưng trong chiếc Pinto của cô còn không có lấy mấy thứ đồ nghề gia dụng.

   Cô lục túi thấy có ống xịt rã đá mà cô dùng cho khoá cửa chiếc Pinto.

     "Ông có muốn nghỉ trong xe một chút không, ông Yow? Ông làm ấm người tí chút đi để tôi thử xem. Tiện thì ông cầm lấy ô luôn đi, mưa giờ cũng không to lắm."

   Starling đánh chiếc Plymouth tới gần cửa để dùng đèn pha chiếu sáng. Cô dùng que đo nhớt của xe nhỏ dầu vào lỗ khoá, sau đó phun chất tan đá để pha loãng dầu. Ông Yow ngồi trong xe cười và gật gù. Starling mừng vì ông là người thông minh; cô có thể làm việc của mình mà không cần làm cho ông ta thấy kì cục.

   Trời đã tối hẳn. Cô cảm thấy mình lộ liễu trong ánh đèn của chiếc Plymouth, tiếng dây cu roa quạt rít trong tai cô khi xe chạy không tải. Cô khoá cửa xe lại khi động cơ chạy. Ông Yow xem chừng vô hại, nhưng cô cảm thấy không có lý gì lại phải mạo hiểm bị đâm dẹp lép vào cửa.

   Cái khoá bật ra trong tay như một con ếch và mở tung, nặng nề và trơn nhẫy. Yow đến giúp cô, nhưng chứng thoát vị của ông ta không giúp được gì nhiều trong việc xử lý cái tay nắm cửa bé tẹo và vô dụng.

     "Ta có thể quay lại vào tuần sau, cùng với con trai tôi hoặc mấy anh thợ," ông Yow đề xuất. "Tôi rất muốn về nhà sớm."

   Starling không chắc cô có thể quay trở lại nơi này được nữa hay không; sẽ bớt phiền toái hơn cho Crawford nếu ông nhấc điện thoại lên kêu chi nhánh Baltimore xử lý vụ này. "Ông Yow, tôi sẽ làm nhanh thôi. Xe ông có kích không?"

   Kê chiếc kích dưới tay nắm cửa, Starling đè cả người lên cần kích. Cánh cửa rít lên ghê rợn và nhấc lên được một phân. Có vẻ như nó đã bị cong lên ở phần giữa. Cánh cửa nhấc dần dần lên một chút, rồi một chút nữa cho tới khi cô có thể đẩy lốp xe dự phòng vào khe để giữ cho nó mở trong khi cô đem kích xe cô và xe Yow qua hai, chèn vào dưới cạnh cửa.

   Lần lượt kích từng bên, cô đẩy dần cánh cửa lên được khoảng 45 phân, cho tới lúc nó thực sự bị kẹt cứng và trọng lượng cả người cô đè lên cần kích cũng không thể khiến cho nó nhúc nhích.

   Ông Yow đi lại nhìn qua khe hở với cô. Mỗi lúc ông ta chỉ cúi xuống được vài giây.

     "Trong này toàn mùi chuột," ông ta nói. "Họ cam đoan với tôi là sẽ đánh bả chuột ở đây. Tôi tin điều đó có ghi trong hợp đồng. Họ kêu ở đây không có chuột, nhưng mà tôi có thể nghe thấy tiếng kêu của chúng. Cô có nghe thấy không?"

     "Tôi có nghe," Starling nói. Dưới ánh đèn pin cô có thể thấy những chiếc hộp các tông và một chiếc lốp xe có sườn lốp rộng màu trắng bên dưới lớp vải phủ. Lốp xe đã xẹp.

   Cô lùi chiếc Plymouth cho tới khi đèn pha chiếu sáng được một chút qua khe hở, đoạn lấy trong xe ra một chiêc đệm cao su trải sàn.

     "Cô định vào trong đấy à sĩ quan Starling?"

     "Tôi cần xem xét một chút ông Yow ạ."

   Ông ta lấy khăn mùi soa. "Cô có cần buộc túm ống quần lại không? Để chuột khỏi chui vào ấy mà."

     "Cảm ơn ông, ý kiến rất hay. Ông Yow, nếu cửa sập xuống, ha ha, hay có chuyện gì đó xảy ra, ông làm ơn gọi số điện thoại này được không? Đây là số văn phòng chi nhánh của chúng tôi ở Baltimore. Họ biết lúc này tôi đang ở đây với ông, và họ sẽ lo lắng nếu lâu lâu không có thông tin gì về tôi, ông hiểu chứ?"

     "Vâng, tất nhiên. Chắc chắn rồi, tôi sẽ làm thế." Ông ta đưa cho cô chìa khoá chiếc Packard.

   Starling đặt chiếc thảm cao su xuống nền đất ướt trước cửa và nằm lêm đó, tay che gói túi nhựa đựng vật chứng lên ống kính máy ảnh, buộc chặt ống quần bằng khăn mùi soa của Yow và của cô. Một màn mưa bụi ào xuống trên mặt, mùi ẩm mốc và mùi chuột xông thẳng lên mũi. Thật kì quặc, trong đầu cô bỗng vang lên mấy câu tiếng Latinh.

   Được người giảng viên môn pháp y viết lên bảng đen trong ngày đầu tiên của khoá đào tạo, đó là khẩu hiệu của y sĩ La Mã: Primum non nocere. Trước hết, đừng gây hại.

   Ông ta không nói câu đó trong một cái ga ra đầy chuột.

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Com